Thứ Năm, 1 tháng 12, 2016

các chủ thể trên thị trường chứng khoán ở tất cả các nư���c vẫn chẳng phải là đối tượng điều tiết để ngăn ngừa không may hệ thống

các bài học đắt giá trên quả đât

các điều tiết trên thị trường chứng khoán truyền thống chỉ tập trung vào vấn đề lên tiếng thông tin và làm giảm các mâu thuẫn mục tiêu, lừa gạt và các hành vi thao túng thị trường, thay bởi vì điều tiết cẩn trọng như trong lĩnh vực ngân hàng, nhằm mục đích chính là bảo vệ nhà đầu tứ và tăng nhanh tính hiệu quả của thị trường. Tuy nhiên, có 2 biến cố to làm cho thay đổi quan điểm của những nhà kinh tế về vấn đề này.

trước tiên là dù điều tiết ngân hàng ngặt nghèo đến mức nào thì khủng hoảng tài chính vẫn xảy ra. đó là thưởng thức nhưng mà các nước đã gặp yêu cầu từ cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997.

vũ trang nhị là cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007 nhưng nguyên do chính bắt nguồn từ sự phát triển của những thành quả tài chính thế hệ.

ảnh 1
GS. TS Trần Ngọc Thơ
Trước lúc cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007 xảy ra, những chủ thể trên TTCK ở mọi những nước vẫn không hề là đối tượng điều tiết để ngăn ngừa rủi ro hệ thống.
những điều tiết trên TTCK truyền thống chỉ tập trung vào vấn đề công bố thông tin và làm giảm các mâu thuẫn mục tiêu, lừa gạt và những hành vi thao túng thị trường, thay do điều tiết cẩn trọng như trong lĩnh vực ngân hàng, nhằm mục đích chính là bảo vệ nhà đầu tứ và tăng mạnh tính hiệu quả của thị trường. Sở dĩ như thế là bởi vì chính phủ những nước thường dựa trên những giả thuyết nhưng mà giờ đây nhìn lại, với đông đảo điều không đúng.

trước tiên, tài sản của các nhà hàng chứng khoán hay những ngân hàng đầu tứ được cho là ko có liên quan phổ biến mang những khách hàng của họ. các tin tức xấu liên quan những tài sản của siêu thị chứng khoán hầu như ko được các người dùng của họ đon đả.

thiết bị hai, bởi các trách nhiệm nợ của công ty chứng khoán chẳng hề huy động từ tiền gửi như hệ thống ngân hàng nên tình trạng nợ nần của họ được cho là miễn nhiễm trước các cuộc rút tiền gửi hàng loạt (giống như ngân hàng), dẫn đến nguy cơ bất ổn toàn hệ thống tài chính.

vật dụng ba, các doanh nghiệp chứng khoán nhìn chung nắm giữ những tài sản sở hữu tính thanh khoản cao và được điều chỉnh hàng ngày theo thị trường nên bảng bằng phẳng kế toán của họ tương đối minh bạch. Điều này đã làm cho giảm đáng đề cập những vấn đề liên quan đến bất cân xứng thông tin, vấn đề nhưng các chính phủ luôn quan ngại trong lĩnh vực ngân hàng.

thứ tứ, mỗi lúc các nhà hàng chứng khoán rơi vào một cuộc khủng hoảng niềm tin hay không thể huy động thêm được các nguồn tài trợ bên không tính cho những hoạt động của mình thì họ cũng dễ dàng bán đi những chứng khoán để bù đắp những thiếu hụt nguồn vốn.

thiết bị năm, các nhà hàng chứng khoán ko nhập cuộc nhiều vào hệ thống thanh toán tiền tệ phức tạp như những ngân hàng, làm sự thất bại của 1 doanh nghiệp chứng khoán cũng không gây ra hiệu ứng dây chuyền như trong hệ thống ngân hàng.

Khoảng 30 năm trước, các nhà kinh tế đã sắm nguyên tắc kiểm tra các fake thuyết trên thông qua giả dụ phá sản của Drexel Burnham Lambert Group (DBLG). DBLG là 1 ngân hàng đầu tư sinh lợi cao nhất ở Mỹ vào giữa thập niên 1980, nhưng sau ấy đã bị phá sản vào 1989 bởi một chuỗi sự kiện liên quan tới những giao dịch ko rõ ràng, khiến họ bị Chính phủ Mỹ phạt tiền. cộng lúc đó là sự đi xuống của TTCK, làm cho DBLG vướng buộc phải các vấn đề kinh điển về thanh khoản dẫn tới phải phá sản. Sự kiện này đã làm cho rung lắc mạnh toàn TTCK Mỹ lúc bấy giờ.

Đây được xem là bài test thứ nhất về những nhận thức sai lạc rằng sẽ ko với không may hệ thống trên TTCK. phổ biến sự kiện sau đấy, nhất là cuộc khủng hoảng của Long-Term Capital Management Fund (LTCM) và khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007 càng củng cố cho nhận định này.

Cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn 2007 ở Mỹ đã lây lan toàn thể hệ thống tài chính, ngân hàng, TTCK và nền kinh tế nước này tới tận hôm nay. Tính dai dẳng của những cuộc khủng hoảng ngân hàng và TTCK còn liên quan đến chế độ xử lý phá sản đối có những định chế tài chính.

Trong 1 vài nếu, cần phải có sự sản xuất của chính phủ bằng cách bơm tiền vào hệ thống, nhưng mà nhìn bình thường, ví như chính phủ càng ít can thiệp vào hệ thống tài chính thì tâm lý ỷ lại của các thành viên trong hệ thống ngân hàng và TTCK càng giảm và hệ quả của các bất ổn trên thị trường tài chính cũng ko kéo dài.

… và vấn đề đặt ra mang Việt Nam

Từ các phân tích trên, liên hiệp sở hữu những đặc biệt kinh tế Việt Nam, kế hoạch tái cấu trúc thị trường tài chính và nâng cấp TTCK sắp đến yêu cầu chu đáo những nội dung sau:

trước tiên, các pháp luật điều tiết và tăng trưởng TTCK ko thể tách rời những cải bí quyết trong khu vực ngân hàng. Mối quan hệ giữa hệ thống ngân hàng và TTCK cũng như khuôn khổ điều tiết phổ biến giữa hai thị trường này để tránh không may hệ thống là 1 thiết bị học phí không phải trả tiền nhưng mà Việt Nam cần rút kinh nghiệm trong giai đoạn tái cấu trúc các ngân hàng và TTCK.

thiết bị hai, kinh tế Việt Nam chỉ mang thể sản xuất bền vững và thị trường tài chính chỉ sở hữu thể tạo ra ổn định ví như như những hoạt động của nền kinh tế thực dựa trên những nguồn vốn trung và dài hạn được huy động trên TTCK, thay do tập trung cục bộ vào nguồn vốn ngắn hạn của hệ thống ngân hàng như hiện tại. Tuy nhiên, như đã đề cập ở trên, việc chuyển sang các nguồn tài trợ dài hạn sở hữu tính thị trường trên TTCK ko mang nghĩa không chạm mặt cần rắc rối mới phát sinh là rủi ro hệ thống.

trang bị ba, nhu yếu những khuôn khổ sở hữu tính phải và hành chính rất mạnh mẽ để chuyển kênh dẫn vốn từ các ngân hàng thương mại chảy sang TTCK. Chẳng hạn, trước mắt đối sở hữu 1 số ngân hàng thương mại yếu kém, thiết yếu những khống chế đặc thù về hạn chế huy động tiền gửi và cho vay ở 1 con số thật thấp nào đó, những ngân hàng chỉ hướng tới các dịch vụ cho vay luân chuyển là chính. Sau đấy sẽ dần dần áp đặt các điều khoản này chung cho toàn hệ thống ngân hàng.

trang bị tư, từ những vụ phá sản ngân hàng ở Mỹ và rộng rãi nước cho thấy, cách thức tốt nhất để chặn lại các không may hệ thống không hoàn toàn nằm ở vấn đề điều tiết, mà ở những vấn đề liên quan đến chế độ xử lý kiên quyết các ngân hàng yếu kém.

một TTCK ko thể phát triển lành mạnh khi nhưng mà những nhà hàng "xác sống" và những ngân hàng 0 đồng vẫn tiếp tục xây dựng thương hiệu, sống sót và hòa hợp lẫn nhau và rồi tác động ngược trở lại TTCK.

khiến sao những nhà đầu bốn tin cậy vào chất lượng những cổ phiếu trên thị trường sàn chứng khoán khi nhưng họ không thể phân biệt được đâu là cổ phiếu của các công ty lành mạnh và công ty "xác sống"?

vũ trang năm, việc phát triển những khí cụ và tác phẩm thế hệ trên TTCK là rất nhu yếu. Lộ trình triển khai những dụng cụ phái sinh trên TTCK Việt Nam buộc phải đề nghị được thực hiện tuần tự và thận trọng với sự giám sát nghiêm ngặt của những cơ quan quản lý thị trường. 1 câu hỏi đặt ra cho các nhà quản lý là 1 lúc hệ thống ngân hàng ngày càng tăng trưởng, hội nhập và cùng sở hữu đó là sự lớn mạnh của TTCK ngày càng logic và phổ biến, làm cho thế nào để ngoại hình một quy tắc để sở hữu thể nắm bắt và điều tiết các hoạt động chứng khoán, bảo hiểm và ngân hàng thành một thể thống nhất để giảm thiểu các không may hệ thống? Cơ quan nào (Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước hay một tổ chức hòa bình thuộc chính phủ) sẽ thực hiện việc này 1 cách mang hiệu quả nhất?

thứ sáu, cần thiết những nghiên cứu chuyên sâu về điều tiết giữa nhì thị trường này mến mộ mang điều kiện đặc biệt của Việt Nam. Tuy thị trường tài chính Việt Nam vẫn còn chậm chạp lớn mạnh, nhưng ẩn cất sâu trong ấy phổ biến phức tạp ko thua sút gì các giao dịch phái sinh thường bị chỉ trích là nguyên nhân của những cuộc khủng hoảng. Chẳng hạn như tình trạng sở hữu chéo, "tay ko bắt giặt" và minh bạch thông tin quá kém.

ví như nhận dạng ko chính xác các tài sản ảo ở khu vực này, các giải pháp tái cấu trúc thị trường tài chính chẳng các ko làm cho hệ thống ngân hàng vững mạnh lành mạnh mà TTCK cũng sẽ khó lòng phát triển bền vững. Chính phủ yêu cầu tiếp cận và xử lý vấn đề này thông qua chiếc gọi là kiến trúc những quy tắc điều tiết.

Điều này hàm ý đến một kiến trúc (điều tiết) tinh tế cho phép vững mạnh 1 định chế khác biệt với khả năng am hiểu toàn vẹn lối chơi chứng khoán những hoạt động kinh tế – tiền tệ và mối quan hệ sở hữu chéo tinh vi giữa những lĩnh vực và các ngành để có thể phát hiện, giám sát và có quyền lực thực sự áp đặt các biện pháp cần thiết ngay khi những mầm mống ban sơ của rủi ro vừa phát sinh.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét